VÌ SAO ĐỨC PHẬT ĐI KHẤT THỰC?

Phụ vương của Đức Phật là Vua Tịnh Phạn từng sốc và tổn thương bởi trong lần đầu về thăm nhà, Đức Phật ra ngoài khất thực sau buổi thuyết pháp, trong khi cung điện đã chuẩn bị yến tiệc.

Kể từ khi thành đạo cho đến lúc nhập diệt, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni luôn duy trì truyền thống trì bình khất thực mỗi ngày, trừ những hôm nhận lời đến nhà vị cư sĩ nào đó trai tăng. Ngài cũng yêu cầu các tăng ni duy trì nề nếp này.

Sự tổn thương của vua Tịnh Phạn

Sau nhiều năm rời nhà đi tìm đạo, Đức Phật trở về kinh thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) thăm gia quyến và độ cho họ bằng giáo pháp. Sau buổi thuyết pháp đầu tiên ở hoa viên của một vị hoàng thân, vì không có lời cung thỉnh trai tăng nên Đức Phật dẫn các đệ tử ra phố trì bình khất thực như thường lệ.

Vua cha Tịnh Phạn (Suddhodana) vốn đã sớm về cung để lo chuẩn bị yến tiệc, cho rằng con trai mình đương nhiên sẽ về nhà dùng cơm. Nhưng ngài chờ mãi không thấy, sau đó nhận được tin Phật và tăng đoàn đã ra phố xin ăn. Bàng hoàng và tổn thương, ngài lật đật đi tìm Phật, trách: “Sao con nỡ làm tổn thương thể thống hoàng tộc như vậy? Cha lấy làm nhục nhã khi thấy con đi khất thực trong chính cái thành phố mà thường ngày con chỉ đi bằng kiệu vàng. Tại sao con nỡ làm nhục cha như vậy?".

Đức Phật trả lời: "Tâu Đại vương, Như Lai không hề làm nhục Đại vương! Như Lai chỉ hành động theo đúng truyền thống của dòng dõi Như Lai".

“Nhưng Thái tử con ơi! Phải chăng truyền thống của dòng dõi hoàng tộc là nuôi mạng sống bằng cách khất thực? Hoàng tộc chúng ta là dòng dõi của vị chiến binh anh hùng Mahasammata chứ không phải hạng người tầm thường phải nhục nhã đi xin ăn để nuôi mạng”, nhà vua sửng sốt kêu lên.

Đức Phật giải thích: “Tâu Đại vương, truyền thống của hoàng tộc hẳn không phải là khất thực độ mạng. Nhưng đây là truyền thống của chư Phật. Hàng nghìn vị Phật trong quá khứ vẫn đi trì bình khất thực”.

Sau khi được giải thích, vua Tịnh Phạn mới hiểu ra và không còn cảm thấy bị tổn thương nữa. Vua đến gần rước bát của Phật và thỉnh ngài cùng các đệ tử về hoàng cung thọ trai.

Ý nghĩa của việc khất thực

Cảnh Phật và tăng đoàn đi khất thực được kinh Kim cương miêu tả rất ấn tượng: “Thuở nọ, Đức Phật ở vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ cùng với chúng đại tỳ kheo, một nghìn hai trăm năm mươi người cùng hội. Bấy giờ gần đến giờ ăn, Thế Tôn đắp y, cầm bát vào thành Xá Vệ khất thực. Trong thành, Đức Phật theo thứ tự, ghé từng nhà, khất thực xong trở về Tịnh Xá, dùng cơm, rồi cất y bát, sau khi rửa chân xong, Đức Phật trải tòa mà ngồi”.

Vậy ý nghĩa của việc khất thực là gì mà nó được coi là một phép tu? Ngoài việc nuôi thân để sống và tu tập, bằng việc xin ăn, chư tăng ni gieo duyên với chúng sinh trong “bát cơm ngàn nhà”, đánh thức Phật tính, lòng từ bi, giảm tính tham lam bủn xỉn trong mỗi người.

Đây cũng là cơ hội để họ truyền pháp, lan tỏa thông điệp từ bi hỉ xả, lối sống thiện lành. Nên nhớ, khi khất thực, Đức Phật và các đệ tử bưng bát ghé lần lượt từng nhà chứ không lựa chọn những nhà hảo tâm mà mình biết để nhanh chóng xin đủ bữa.

Với bản thân khất sĩ, việc xin ăn cũng giúp họ kiểm soát bản ngã, xóa bỏ tính kiêu ngạo, tự cao, học tính khiêm cung, nhẫn nại. Khất thực cũng giúp đoạn trừ được lòng tham còn lại trong tu sĩ, vì các vị được bố thí gì thì dùng cái đó, khi bước đi không biết được thí chủ cho gì, nhiều hay ít, ngon hay không.

Như vậy, các bậc tu hành đi khất thực vừa xin lại vừa cho, là người nhận bố thí nhưng cũng là người bố thí, là người dạy và cũng là người học.

Hiện nay truyền thống khất thực vẫn được duy trì ở các nước theo Phật giáo Nam tông (Phật giáo Nguyên thủy) như Thái Lan, Sri Lanka, Campuchia… Người Việt Nam chủ yếu theo truyền thống Phật giáo Bắc tông (Đại thừa), chư tăng ni không đi khất thực mà nấu ăn tại chùa. Các vị thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông và Khất sĩ thì tùy duyên duy trì hạnh tu khất thực chứ không khất thực hàng ngày.

Nguồn: Huyền Vi

NGƯỜI KHẤT THỰC

Mỗi lần ôm bát đi trì bình khất thực tôi lại tưởng nhớ đến tôn giả Mahā Kassapa (Đại Ca Diếp) và tôn giả Subhūti (Tu-bồ-đề). Vị tôn giả “đệ nhất đầu-đà” Đại Ca Diếp chỉ đi bát ở nơi xóm nhà nghèo nàn để độ cho những người cùng cực đói khổ nhất. Vị tôn giả “đệ nhất chư thiên ái kính” Tu-bồ-đề thì chỉ đi bát nơi những gia đình trung lưu hoặc giàu có. Cả hai trường hợp có vẻ “không bình đẳng” này hẵng là phải có nhân duyên chứ?

Tôn giả Mahā Kassapa là con trai độc nhất của một gia tộc cự phú mà gia sản kim ngân không thua kém trưởng giả Cấp Cô Độc bao nhiêu. Trước khi xuất gia, chàng trai cùng người vợ thủ ước sống như vợ chồng nhưng giữ gìn phạm hạnh này

– phải mất ba ngày mới bố thí hết gia sản, không giữ lại gì cho mình, rồi ra đi sống đời không nhà cửa lang thang tìm đạo. Sau khi gặp đức Phật, được ngài giác ngộ, tôn giả chọn nếp sống với 13 pháp đầu-đà khổ hạnh.

Trên đường du phương hoằng pháp, tôn giả quan sát thấy rõ những kẻ cùng cực đói khổ trên đời này đều là do nhân nhiều đời kiếp với tâm keo kiệt bủn xỉn, chưa hề biết cho đi, san sẻ cho ai, giúp đỡ cho người vật dù một xu một cắc hay muỗng cháo, vá cơm. Hãy tạo duyên lành cho họ có cơ hội mở rộng tấm lòng, bố thí cúng dường cái gì đó để kiếp sau đỡ khổ hơn.

Thế rồi, tôn giả tìm đến những xóm nhà lao động nghèo khổ, những gia đình Thủ-đà-la hay Chiên-đà-la để trì bình khất thực. Món cơm tấm trộn trấu cũng được. Món cháo siu nguội còn lại ngày hôm qua cũng được. Có lần đứng trước cửa nhà của một người nô lệ, căn nhà tồi tàn chỉ như chuồng bò xiêu vẹo. Một người đàn bà bước ra chào xá ngài với nước mắt: “Bạch ngài, con không có gì cả!” Tôn giả dịu dàng nói: “Không ai là không có gì, này nữ thí chủ!” Người đàn bà nói lời chân thật: “Mấy ngày hôm nay con chỉ xin được nước rửa gạo tấm của người hàng xóm để uống cần hơi”.Tôn giả mỉm cười nhẹ: “Thí chủ cầm hơi được thì ta cũng cầm hơi được mà!” Nghe nói vậy người đàn bà hối hả vào nhà, lấy “thực phẩm” ấy sớt vào bát cho ngài. Tôn giả trân trọng đón nhận rồi trải y hai lớp ngồi xuống và thọ dụng “vật thực” ấy ngay tại chỗ. Người đàn bà sung sướng, hoan hỷ quá, quỳ sập xuống, ràn rụa nước mắt. Lần thọ thực ấy của tôn giả là sau 7 ngày xuất diệt thọ tưởng định nên phước báu của người cúng dường được trổ quả tức khắc: Chư thiên xúc động, vua chúa xúc động, chư vị đại gia xúc động ai cũng muốn đến để chia phước. Kể tóm tắt là sau đó, người đàn bà thoát cảnh đói nghèo.

Tôn giả Subhūti là em trai của trưởng giả Cấp Cô Độc, là một thương gia, là một triệu phú, sau khi gặp Phật, xuất gia, ông chọn núi rừng thanh vắng để ẩn cư, tu tập. Một lần nọ, tôn giả ôm bát đứng nơi một căn nhà nghèo khổ. Bên trong, người đàn bà Chiên-đà-la vừa chuẩn bị xong một bát cháo loãng định cho con ăn. Thấy tôn giả, bà nhìn quanh, đưa tay lục tìm chỗ này, chỗ nọ… Có lẽ thấy không còn vật thực nào khác nữa, bà bước ra, đổ hết bát cháo vào bát của ngài. Đứa bé khóc ngăn ngắt. Bàng hoàng cả người, tôn giả nói: “Thí chủ không còn gì! Cả cho mình và cho đứa trẻ. Thọ nhận thì ta đã thọ nhận rồi. Vậy hãy lấy cháo này cho trẻ nó ăn”. Nói ba lần như thế, người đàn bà cũng không chịu: “Thân phận con thấp hèn. Thấy ngài, được cúng dường gì cho ngài, con cảm giác như cọng cỏ khô mà hớp được một chút sương; như giữa sa mạc, một mầm xanh nhỏ nhoi lại được nhú lên! Ngài đừng lấy đi chút hy vọng cuối cùng của con trên cuộc đời này!”

Thuở ấy, tôn giả đang còn phàm nên ngài đã chảy nước mắt và người đàn bà cũng chảy nước mắt. Quả thật, tôn giả đã không an tâm được khi nhận vật thực nơi những người quá nghèo khổ; ngài có cảm giác như tước đoạt hoặc bớt xén vào cái phần vật thực vốn đã quá ít ỏi của họ! Đức vua Bimbisāra nghe được chuyện, xúc động quá, tức khắc ông nói với quân hầu: “Các ngươi hãy tìm cho ra ngôi nhà của người nô lệ ấy. Trẫm sẽ ban thưởng xứng đáng, hậu hĩ; không chỉ là một giọt sương mà có thể là cả một cơn mưa rào!” Thế đấy, rồi người nữ nô lệ kia cũng thoát được cảnh khốn khổ.

Chuyện xưa là như vậy.

Nhiều năm nay, hễ đến ngày chủ nhật là chúng tôi đi trì bình khất thực. Thường thì tôi cùng chư sư, khi mười, mười hai, đôi khi mười tám, hai mươi vị ôm bát đi xin ăn khắp thành phố Huế, cả ngoại ô, kể cả một vài làng quê xa. Vật thực ngày nay, thời đại vật chất thịnh mãn này thì quá nhiều, quá sung mãn, và ai ai dường như cũng có khả năng đặt bát cúng dường cả. Không có cái cảnh“xót xa” như thuở trước. Chúng tôi không dám noi gương hai vị đại tôn giả ở trên – như vầng nhật nguyệt lồng lộng giữa trời cao - chỉ xin được như là hạt bụi dính trên đôi chân trần của quý ngài thôi. Chúng tôi là gì cơ chứ? Đời sống tu sĩ thời nay quá lợi dưỡng, quá đủ mọi thứ tiện nghi; và bản thân chúng tôi cũng vậy, thì một vài hôm sống theo hạnh xin ăn, chẳng lẽ lại không thực hiện nổi hay sao?

Chúng tôi, trên từng bước đi, ai cũng cảm nhận được rằng, khi đi trì bình khất thực như thế mình sẽ học được nhiều điều, và sự tu tập cũng khá hơn so với những lúc ở chùa với những công việc liên hệ bộn bề quanh năm. Và có một thông điệp rõ ràng là chúng tôi không thọ nhận tiền bạc đúng với giới điều quy định để phá bỏ hình ảnh xấu như ở những nơi khác đầy rẫy tu sĩ giả mạo kiếm ăn tà mạng.

Chúng tôi đều là tu sĩ còn lắm tham sân phiền não, xem việc đi trì bình khất thực là một pháp môn tu tập nên đã tự răn bảo mình những điều tâm niệm để luôn cố gắng thu thúc và hành trì.

Có mười điều tâm niệm như sau:

Điều một: Mình là một tu sĩ đi xin ăn, xin ăn cả “những người đi ăn xin” thì mình đúng là kẻ vô sản, bần hàn nhất trên thế gian. Vậy nếu có cơ sở chùa chiền, tu viện, tự viện, vàng bạc, tiền gởi ngân hàng… gì đó thì đều là của đàn-na tín thí, của Tam Bảo… chớ nào phải của mình đâu!

Điều hai: Mình là tu sĩ vô sản bần hàn như điều một, thì có gì đáng để tự hào, hãnh diện; chẳng có gì đáng để vênh váo, phô phang, kiêu căng, ngã mạn. Hãy học hạnh của tôn giả Sāriputta tự coi mình như miếng giẻ chùi chân, ai chùi chân bẩn chân dơ lên đấy cũng được cả.

Điều ba: Mình là tu sĩ đi xin ăn là thọ nhận tấm lòng quý kính, đức tin của mười phương đàn na tín thí – thì coi chừng, phải cẩn thận khi thọ dụng, nó là miếng sắt lửa địa ngục nung đỏ!

Điều bốn: Mình là tu sĩ đi xin ăn, khi nhận cái kẹo, cái bánh hay gói mì, hộp sữa thì đều phải trân trọng bình đẳng như nhau– vì đằng sau vật thực ấy là tấm lòng thành, là sự cung kính cúng dường của thập phương tín thí.

Điều năm: Mình là tu sĩ đi xin ăn thì đừng có “tâm viên, ý mã” mà phải thường trực chánh niệm, tỉnh giác; có thể tập trú năng lượng tâm từ, có thể tập trú tâm giải thoát cho thí chủ có phước mới xứng với phẩm hạnh của sa-môn.

Điều sáu: Mình là tu sĩ, mình là ông sư, mình là vị tăng, đại diện cho chư thánh phàm tăng ba đời – thì phải trang nghiêm, mẫu mực, sáu căn gìn giữ, phải lưu lại hình ảnh xuất trần tam y nhất bát như một biểu tượng thánh thiện và cao đẹp giữa lòng thế gian.

Điều bảy: Mình là tu sĩ thì đây là cơ hội cho mình an lạc trong từng bước chân, trong từng hơi thở tỉnh thức hiện tiền – vì khi ấy mình không tham sân si, không phiền não, không bị những hạt giống xấu ác nhiều đời ở trong tâm chi phối.

Điều tám: Mình là tu sĩ thì phải học hạnh của tôn giả Puṇṇā (Phú-lâu-na) như một thớt voi lâm trận, không sợ hãi bất kỳ một lằn tên mũi đạn nào từ những lời đàm tiếu, khinh thị, chê bai… kể cả sĩ nhục, chửi mắng của ngoại đạo, của ác kiến thế gian.

Điều chín: Mình là tu sĩ, trong lúc đi xin ăn, có thể bị xe tông, tai nạn hoặc cái chết có thể xẩy ra bất cứ lúc nào – thì mình sẽ mỉm cười đón nhận nhẹ nhàng và vô cùng thanh thản.

Điều mười: Mình là tu sĩ tầm thường, còn nhiều xấu ác, trước đây có lỡ phạm giới này, giới kia, nặng hay nhẹ thì ít nhất những thời gian ôm bát đi xin ăn như thế, tâm và trí mình cũng trắng bạch như vỏ ốc, mát mẻ, trong sáng và thanh tịnh dường bao!

Nguồn: Chùa Bửu Đà

Xem thêm bài viết liên quan :


MÁY NIỆM PHẬT TÚ HUYÊN - CHUYÊN BÁN MÁY NIỆM PHẬT THEO YÊU CẦU

Máy Niệm Phật Tú Huyền chuyên làm máy niệm phật theo yêu cầu về nội dung pháp thoại, kích thước, màu sắc và tùy chỉnh máy niệm phật. Hãy trải nghiệm dịch vụ sản phẩm của Tú Huyền để có máy Niệm Phật theo ý muốn.

Máy Niệm Phật Tú Huyền là ngôi nhà tin cậy của bạn trong hành trình tu học Phật pháp. Chúng tôi tự hào mang đến cho bạn những sản phẩm máy niệm Phật chất lượng cao, được thiết kế riêng biệt theo yêu cầu cá nhân của bạn về nội dung pháp thoại, kích thước, màu sắc và tùy chỉnh máy niệm Phật. Với sứ mệnh tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người trên con đường tu học, chúng tôi mang đến Quà Tặng Phật Pháp để đồng hành của các chư vị đồng tu.

THÔNG TIN LIÊN HỆ:

  • Địa chỉ : 28 Lê Ngã, P.Phú Trung, Q,Tân Phú, TPHCm
  • Điện thoại : 0988 812 802
  • Website: https://tuhuyen.com
  • Facebook: https://www.facebook.com/MayNiemPhatTuHuyen/
  • Youtube: https://www.youtube.com/@mayniemphattuhuyen/

Máy Niệm Phật Tú Huyền - Quà Tặng Phật Pháp Ý Nghĩa

Máy Niệm Phật Tú Huyền chuyên bán máy niệm Phật, Máy Nghe Pháp theo yêu cầu, chép thẻ nhớ theo yêu cầu dùng để gieo duyên Phật Pháp

0コメント

  • 1000 / 1000